Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 7 năm 2021

Thứ Tư, 21 Tháng Bảy, 2021 359 lượt xem Chia sẻ bài viết:

Từ ngày 1/7/2021, nhiều chính sách, văn bản mới có liên quan đến đời sống dân sinh như chính sách ưu đãi với người có công; chính sách về bảo hiểm y tế; thu hồi, không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú… sẽ bắt đầu có hiệu lực.

Nhiều thay đổi về chính sách ưu đãi với người có công

Pháp lệnh số 02/2020/UBTVQH14 được Quốc hội ban hành ngày 9/12/2020 về ưu đãi về người có công chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2021, thay thế cho Pháp lệnh năm 2005.

Theo pháp lệnh này, thương binh, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh được Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường, lớp, trang thiết bị, được vay vốn ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, miễn hoặc giảm thuế đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đây là một chế độ mới mà trước đây chưa quy định cho các đối tượng người có công này.

Với Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mức trợ cấp hằng tháng cũng được tăng từ ngày 1/7/2021, cụ thể là bằng 3 lần mức chuẩn (tức 4.872.000 đồng/tháng), thay vì 1 lần mức chuẩn như quy định trước đây.

Riêng với vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ khi còn sống, sẽ được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng và được hỗ trợ về Bảo hiểm y tế.

Tăng trợ cấp cho nhiều đối tượng

Theo Nghị định 20 của Chính phủ, nhiều khoản trợ cấp cho các đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được điều chỉnh tăng vào thời điểm 1/7/2021. Cụ thể gồm:

– Trẻ mồ côi dưới 4 tuổi; trẻ nhiễm HIV thuộc hộ nghèo được hưởng trợ cấp 900.000 đồng/tháng, thay cho mức 675.000 đồng/tháng.

– Người từ đủ 60 đến đủ 80 tuổi thuộc hộ nghèo, không có người phụng dưỡng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng.

– Người khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp 720.000 đồng/tháng, thay cho mức 540.000 đồng/tháng; người khuyết tật nặng được hưởng trợ cấp 540.000 đồng/tháng, thay cho mức 405.000 đồng/tháng…

– Trợ cấp mai táng người chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn; tai nạn giao thông, tai nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác tối thiểu là 18 triệu đồng (trước đây chỉ là 5,4 triệu đồng), với trường hợp gia đình tổ chức mai táng…

– Hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác cho hộ dân phải di dời khẩn cấp tối thiểu là 30 triệu đồng/hộ, trước đây tối đa là 20 triệu đồng/hộ…

Áp dụng một số chính sách mới về bảo hiểm y tế

Nhiều văn bản có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 cũng có một số quy định liên quan đến bảo hiểm y tế. Cụ thể như:

– Luật Cư trú 2020 thay đổi khái niệm “hộ gia đình tham gia BHYT”. Theo đó, hộ gia đình tham gia BHYT là những người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về cư trú (trước đây là toàn bộ những người có tên trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú).

– Nghị định 20 của Chính phủ bổ sung một số trường hợp được cấp thẻ BHYT miễn phí, như: Người đơn thân nghèo đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc con từ 16 đến 22 tuổi nhưng đang ăn học; Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng…

– Thông tư 04 của Bộ Y tế quy định việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT theo định suất. – Pháp lệnh Ưu đãi người có công năm 2020 quy định vợ hoặc chồng liệt sĩ đã tái giá nhưng vẫn nuôi con liệt sĩ hoặc chăm sóc cha, mẹ đẻ của liệt sĩ cũng được hỗ trợ về BHYT (trong khi trước đây không được)…

Thu hồi, không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú

Ngày 1/7/2021, Luật Cư trú mới có hiệu lực, áp dụng 2 chính sách mới liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú – những cuốn sổ mà hơn 70 năm nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi hộ dân.

Trước tiên là vấn đề thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú: Theo Luật Cư trú, khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ đã cấp. Các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú và bị thu hồi sổ được Bộ Công an hướng dẫn tại Thông tư 55 (cũng có hiệu lực từ 1/7/2021) như sau:

– Thủ tục đăng ký thường trú.

– Thủ tục điều chỉnh thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.

– Thủ tục tách hộ.

– Thủ tục xóa đăng ký thường trú.

– Thủ tục đăng ký tạm trú.

– Thủ tục gia hạn tạm trú.

– Thủ tục xóa đăng ký tạm trú. Như vậy, không phải tất cả sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đều bị thu hồi, mà chỉ khi người dân đi làm các thủ tục nêu trên thì mới bị thu hồi. Những sổ khác, không thuộc trường hợp bị thu hồi, vẫn sử dụng bình thường.

Ngoài việc thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong nhiều trường hợp nêu trên, ngày 1/7/2021 cũng là thời điểm bắt đầu không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Theo đó, khi người dân đi làm thủ tục đăng ký thường trú sẽ không còn được cấp sổ hộ khẩu, làm thủ tục đăng ký tạm trú sẽ không còn được cấp sổ tạm trú.

Đồng thời, khi các cuốn sổ này bị mất, bị hư hỏng, rách nát… cũng không còn được cấp lại. Mọi thông tin về cư trú của người dân sẽ được cập nhật và lưu tại Cơ sở dữ liệu về cư trú.

Như vậy, thay vì một cuốn sổ bằng giấy, từ ngày 1/7/2021, việc quản lý dân cư sẽ được quản lý bằng dữ liệu điện tử. Cần lưu ý rằng, ngày 1/7/2021 là thời điểm không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, không phải là thời điểm bãi bỏ hoàn toàn hai loại giấy tờ này. Đến ngày 1/1/2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú mới chính thức bị xóa bỏ hoàn toàn.

Nhiều thay đổi lớn về đăng ký thường trú, tạm trú

Không chỉ quyết định số phận của sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, Luật Cư trú có hiệu lực từ ngày 1/7/2021 còn thay đổi rất nhiều vấn đề về đăng ký thường trú, tạm trú, liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi người dân. Trước tiên, luật này cho thấy điều kiện đăng ký thường trú ở 63 tỉnh, thành là như nhau, không phân biệt thành phố trực thuộc trung ương như trước đây.

Đáng chú ý, từ 1/7/2021, việc nhập hộ khẩu vào các thành phố lớn cũng có phần “cởi mở” hơn so với trước đây, bởi đã xóa bỏ điều kiện “thời gian tạm trú”, chỉ yêu cầu người dân có chỗ ở hợp pháp là có thể làm thủ tục đăng ký thường trú.

Trong thủ tục đăng ký tạm trú, luật cũng không còn yêu cầu người thuê nhà phải có ý kiến đồng ý của chủ nhà. Đáng chú ý, luật đã bổ sung quy định về những nơi không được đăng ký thường trú, tạm trú, như: Nhà nằm trên đất lấn chiếm; Nhà đã có quyết định thu hồi đất; Nhà đã có quyết định phá dỡ…

Do đó, từ ngày 1/7/2021, người dân cũng cần lưu ý không thuê nhà, mua nhà ở các địa điểm này, vì không thể làm được thủ tục đăng ký tạm trú, thường trú. Ngoài ra, luật cũng quy định thêm nhiều trường hợp bị xóa đăng ký thường trú, điển hình nhất là 2 trường hợp: Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên, mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài; Bán nhà mà không được chủ nhà mới đồng ý cho giữ lại đăng ký thường trú.

Thủ tục làm căn cước công dân có nhiều điểm mới

Ngày 1/7/2021 cũng là thời điểm có hiệu lực của một số văn bản liên quan đến Căn cước công dân (CCCD) gắn chip, cụ thể là Thông tư 59 và Thông tư 60 của Bộ Công an. Với hai thông tư này, Bộ Công an đã có bước tiến mới trong quy trình, thủ tục cấp CCCD gắn chip – loại giấy tờ tùy thân quan trọng nhất của mỗi công dân.

Thứ nhất, Bộ Công an yêu cầu thu hồi mọi chứng minh nhân dân cũ (9 số, 12 số) khi người dân làm thủ tục đổi sang CCCD gắn chip. Trong khi trước đây, chỉ thu hồi với chứng minh nhân dân bị hỏng, bong tróc, không rõ nét, còn các trường hợp khác thì chỉ bị cắt góc và được trả lại cho người dân.

Thứ hai, thời gian tối đa để cấp CCCD cho người dân là 8 ngày làm việc (trong đó có 2 ngày để chuyển dữ liệu điện tử lên Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư; 3 – 4 ngày để Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính xử lý, phê duyệt, in thẻ và 2 ngày chuyển phát về nơi người dân làm thủ tục).

Thứ ba, mã QR Code trên thẻ CCCD chứa thông tin về số chứng minh nhân dân cũ của người dân. Do đó, người dân không cần phải xin giấy xác nhận số chứng minh nhân dân và cung cấp khi làm các thủ tục, giao dịch sử dụng số chứng minh nhân dân cũ như trước đây, trừ trường hợp mã QR Code không có thông tin về số chứng minh nhân dân.

Thứ tư, người dân chính thức được làm CCCD ở nơi tạm trú từ ngày 1/7/2021, thay vì phải về nơi thường trú như trước đây. Thứ năm, khi đi làm thủ tục cấp CCCD gắn chip, người dân không còn phải điền thông tin trên tờ khai CCCD như trước, mà cán bộ làm thủ tục sẽ tìm kiếm thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, sau đó in phiếu cho người dân kiểm tra, ký và ghi rõ họ tên…

Quy định mới về hủy, xác lập lại số định danh cá nhân

Có hiệu lực từ 1/7/2021, Thông tư số 59/2021/TT-BCA của Bộ Công an quy định chi tiết thi hành Luật Căn cước công dân (CCCD) và Nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật CCCD đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 37/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021.

Thông tư nêu rõ quy định việc hủy, xác lập lại số định danh cá nhân. Cụ thể, trường hợp xác lập lại số định danh cá nhân do công dân được xác định lại giới tính hoặc cải chính năm sinh theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch thì công an cấp xã nơi công dân đăng ký thường trú yêu cầu công dân đó cung cấp giấy tờ, tài liệu hộ tịch chứng minh việc đã được xác định lại giới tính hoặc cải chính năm sinh để kiểm tra, xác minh, bổ sung vào hồ sơ quản lý và gửi yêu cầu đề nghị xác lập lại số định danh cá nhân cho công dân lên cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Trường hợp hủy số định danh cá nhân đã xác lập cho công dân do có sai sót trong quá trình nhập dữ liệu liên quan đến thông tin về nơi đăng ký khai sinh, năm sinh, giới tính của công dân vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thì công an cấp xã nơi công dân đăng ký thường trú phải kiểm tra, xác minh tính chính xác của các thông tin cần điều chỉnh và gửi yêu cầu đề nghị hủy, xác lập lại số định danh cá nhân cho công dân lên cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Bộ Công an.

Không cần mang nhiều giấy tờ khi thực hiện giao dịch, thủ tục hành chính:

Một trong những lợi ích lớn nhất cho mọi người dân chính là việc không cần mang quá nhiều giấy tờ khi thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch, cụ thể:

– Người dân không cần phải mang theo giấy xác nhận số CMND cũ vì trên mã Qr của thẻ CCCD đã chứa toàn bộ thông tin của người dân. Do đó, từ này 01/7 người dân không còn cảm thấy khó khăn khi nhiều thủ tục, giao dịch cần dùng đến loại giấy này.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp mã QR không chứa thông tin số CMND cũ thì bắt buộc người dân vẫn phải dùng đến giấy xác nhận. Nhưng những trường hợp này không nhiều.

– Đối với những trường hợp đăng ký hộ khẩu, tạm trú hoặc thực hiện các thủ tục làm thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, tạm trú thì lần thực hiện thủ tục tiếp theo sẽ không cần mang sổ hộ khẩu. Vì:

+ Từ ngày 01/7/2021 sẽ không cấp mới sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nên nếu người dân đăng ký hộ khẩu, tạm trú thì sẽ được quản lý bằng điện tử. Do đó, với lần thực hiện thủ tục tiếp theo sẽ không cần dùng đến sổ.

+  Từ ngày 01/7/2021, người dân thực hiện các thủ tục về cư trú làm thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú sẽ bị thù hồi sổ và thực hiện quản ký bằng điện tử. Do đó, với lần thực hiện thủ tục tiếp theo sẽ không cần dùng đến sổ.

Ngoài ra, việc người dân không cần nhiều giấy tờ khi giao dịch vừa tạo thuận lợi mà người dân không cần phải lo lắng vì phài giữ cẩn thận hoặc sợ giấy tờ rơi vào tay kẻ xấu.

Được thực hiện nhiều thủ tục hành chính tại nơi đang làm việc, học tập xa nhà:

Theo hướng dẫn tại Thông tư 59/2021/TT-BCA thì người dân có thể thực hiện thủ tục cấp đổi thẻ CCCD gắn chíp tại nơi tạm trú mà không cần phải về quê.

Ngoài ra, từ ngày 01/7/2021, người dân yêu cầu xác nhận thông tin về cư trú có thể trực tiếp đến cơ quan đăng ký cư trú trong cả nước không phụ thuộc vào nơi cư trú của công dân để đề nghị cấp xác nhận thông tin về cư trú.

Như vậy, trong tương lai sẽ còn nhiều thủ tục người dân được thực hiện tại nơi mình đang học tập, làm việc xa nhà mà không cần phải tốn thời gian, tiền bạc để trở về nơi thường trú như trước kia.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Hotline: 0976.853.999